Please use this identifier to cite or link to this item:
https://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/55319
Full metadata record
DC Field | Value | Language |
---|---|---|
dc.contributor.advisor | Assoc. Prof. Dr. Trầm Thị Xuân Hương | en |
dc.contributor.author | Nguyễn Thị Quế Thu | en |
dc.date.accessioned | 2017-09-18T08:51:08Z | - |
dc.date.available | 2017-09-18T08:51:08Z | - |
dc.date.issued | 2016 | - |
dc.identifier.other | Barcode: 1000000925 | - |
dc.identifier.uri | http://opac.ueh.edu.vn/record=b1024700~S8 | - |
dc.identifier.uri | http://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/55319 | - |
dc.description | Finance - Banking = Tài chính - Ngân hàng | en |
dc.description.abstract | Trong phạm vi bài nghiên cứu này, tác giả đã phân tích danh mục cho vay của 24 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong thời gian 11 năm từ 2005-2015, và các số liệu từ phân tích cho thấy rằng danh mục cho vay tại hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn vừa qua có mức độ đa dạng hóa không cao. Các ngân hàng cho vay đa dạng trên nhiều ngành nghề kinh tế, tuy nhiên trong tổng danh mục cho vay chỉ có một số ngành kinh tế cơ bản chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, hoạt động cho vay của các NHTM Việt Nam đang tiềm ẩn rủi ro khá lớn, đó là rủi ro tập trung danh mục. Thêm vào đó với đặc thù hoạt động của các ngân hàng Việt Nam, hoạt động chính là huy động và cho vay, thu nhập từ hoạt động này chiếm trên 60% trong tổng thu nhập. Do vậy việc tìm hiểu mối quan hệ đồng biến hay nghịch biến giữa mức độ tập trung danh mục cho vay và lợi nhuận ngân hàng đạt được là một vấn đề quan trọng và đáng được các ngân hàng quan tâm. Để phân tích mối quan hệ trên, tác giả sử dụng thước đo mức độ tập trung theo ngành kinh tế của các NHTM, và dùng phương pháp phân tích hồi quy. Dữ liệu được sử dụng là dữ liệu bảng không cân bằng được thu thập từ báo cáo tài chính của 24 NHTM trong giai đoạn 2005-2015. Mô hình được xây dựng bao gồm biến phụ thuộc là lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), và các biến độc lập là logarit tự nhiên tổng tài sản (LNASSET), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQTA), chỉ số đo lường mức độ tập trung (HHI). Với mức ý nghĩa 5% kết quả mô hình cho thấy tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có mối quan hệ cùng chiều với lợi nhuận, trong khi quy mô tài sản và mức độ tập trung danh mục cho vay có mối quan hệ nghịch biến với ROA. Như vậy tại điều kiện hoạt động của thị trường Việt Nam, danh mục cho vay đa dạng hóa sẽ mang lại lợi nhuận tốt hơn cho các ngân hàng. Bởi lẽ các NHTM tại Việt Nam đang có sự tập trung trong danh mục cho vay và do đó tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Một sự tập trung danh mục cho vay ở mức thấp hơn sẽ đem lại hiệu quả lợi nhuận cao hơn cho các ngân hàng. | en |
dc.format.medium | 74 tr. | en |
dc.language.iso | vi | en |
dc.publisher | Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh | - |
dc.subject | Ngân hàng | en |
dc.subject | Banking | en |
dc.subject | Danh mục cho vay | en |
dc.subject | Loan portfolio | en |
dc.subject | Lợi nhuận | en |
dc.subject | Profit | en |
dc.title | Tác động của danh mục cho vay đến lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại Việt Nam | en |
dc.type | Master's Theses | en |
item.cerifentitytype | Publications | - |
item.fulltext | Full texts | - |
item.languageiso639-1 | vi | - |
item.grantfulltext | reserved | - |
item.openairecristype | http://purl.org/coar/resource_type/c_18cf | - |
item.openairetype | Master's Theses | - |
Appears in Collections: | MASTER'S THESES |
Files in This Item:
File
Description
Size
Format
Google ScholarTM
Check
Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.