Advanced
Please use this identifier to cite or link to this item: https://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/63161
Full metadata record
DC FieldValueLanguage
dc.contributor.advisorDr. Lê Vũ Ngọc Thanhen_US
dc.contributor.authorLê Thành Thái Nguyênen_US
dc.date.accessioned2022-03-04T04:22:34Z-
dc.date.available2022-03-04T04:22:34Z-
dc.date.issued2021-
dc.identifier.otherBarcode: 1000011967-
dc.identifier.urihttps://opac.ueh.edu.vn/record=b1033366~S1-
dc.identifier.urihttp://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/63161-
dc.description.abstractSự tác động vào lợi nhuận hay còn gọi là hành vi QTLN cũng đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu trong suốt chiều dài phát triển kinh tế như nghiên cứu DeAngelo, 1986; Jones, 1991; Levitt, 1998; Healy 1999; Dechow 2000; Giacomino & Bellovary, 2007; Lo 2008) và cả ở Việt Nam như nghiên cứu của Đường Nguyễn Hưng (2013), Phạm Thị Bích Vân (2013), Nguyễn Thị Minh Trang (2012), Nguyễn Trọng Nguyên (2014), Huỳnh Thị Vân (2012), Nguyễn Anh Hiền (2016). Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) vì vấn đề về này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng BCTC- uy tín của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự lựa chọn và quyết định đầu tư của các nhà đầu tư, quyết định cho vay của chủ nợ, nhất là hiện nay trong thời điểm dịch bệnh Covid-19 gây ra không ít những khó khăn thử thách cho các doanh nghiệp khi 9 tháng đầu năm 2021 đã có 90.291 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường(theo trang thông tin dangkykinhdoanh.gov.vn) đồng thời quý III/2021 ghi nhận giảm 6,17% đây là con số giảm sâu nhất trong lịch sử thống kê điều này cũng dễ hiểu khi quý III/2021 mọi doanh nghiệp, người dân và chính phủ tập trung chống dịch, nhất là khu vực TPHCM là một trong những khu vực đầu tàu để kéo GDP cả nước nhưng lại là khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến QTLN đã được nghiên cứu như loại công ty kiểm toán, nhóm nhân tố về đặc điểm doanh nghiệp như số năm thành lập (tính từ lúc thành lập đến năm đang nghiên cứu), đòn bẩy tài chính, ROA, quy mô công ty, khả năng thanh khoản, dòng tiền hoạt động, cơ hội tăng trưởng, ROE, số người HĐQT, những nhân tố kể trên đa phần đƣợc nghiên cứu rải rác ở các nghiên cứu chứ chưa được tập hợp lại để đánh giá tác động trong môi trường tại Việt Nam, đặc biệt là trên TTCK Việt Nam. Đồng thời xem thống kê đánh giá tác động của dịch Covid-19 ảnh hƣởng đến việc thực hiện ĐCLN của các công ty trên TTCK Việt Nam ra sao? Và các công ty lớn thuộc chỉ số VN30 là những công ty lớn trên TTCK Việt Nam thì có thật sự thực hiện hành vi ĐCLN ít hơn các công ty không thuộc chỉ số VN30 hay không? Bài luận văn này sẽ đưa ra kết quả, phân tích và đánh giá cụ thể các nhân tố đồng thời đưa ra những kiến nghị và hướng nghiên cứu trong tương lai.en_US
dc.format.medium64 tr.en_US
dc.language.isoVietnameseen_US
dc.publisherTrường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh-
dc.subjectLợi nhuậnen_US
dc.subjectThị trường chứng khoánen_US
dc.subjectProfitsen_US
dc.subjectStock exchangesen_US
dc.titleTác động các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong bối cảnh dịch Covid-19en_US
dc.typeMaster's Thesesen_US
ueh.specialityAccounting (by Research) = Kế toán (hướng nghiên cứu)en_US
item.openairecristypehttp://purl.org/coar/resource_type/c_18cf-
item.grantfulltextreserved-
item.cerifentitytypePublications-
item.fulltextFull texts-
item.openairetypeMaster's Theses-
item.languageiso639-1Vietnamese-
Appears in Collections:MASTER'S THESES
Files in This Item:

File

Description

Size

Format

Show simple item record

Google ScholarTM

Check


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.