Title: | Ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán báo cáo tài chính đến giá cổ phiếu các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam |
Author(s): | Nguyễn Thị Thanh Trâm |
Advisor(s): | Dr. Nguyễn Hoàng Tố Loan |
Keywords: | Ý kiến kiểm toán; Audit opinion; Báo cáo tài chính; Financial report; Giá cổ phiếu; Stock price; Lợi nhuận; Profit; Quy mô; Size |
Abstract: | Trong số các công cụ được các cơ quan quản lý sử dụng nhằm nâng cao độ tin cậy, tính trung thực và hợp lý của BCTC; cuộc kiểm toán bắt buộc do một công ty kiểm toán độc lập thực hiện giữ một vai trò quan trọng. Bài nghiên cứu “Ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán BCKT đến giá cổ phiếu các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam” nhằm nghiên cứu sự tác động của ý kiến kiểm toán trong BCKT đến giá cổ phiếu trong giai đoạn 2019 – 2021. Lợi nhuận công ty và quy mô công ty được thêm vào mô hình nghiên cứu để làm biến kiểm soát nhằm xem xét tác động đồng thời của chúng lên giá cổ phiếu tại thời điểm công bố BCKT. Tác giả sử dụng dữ liệu thứ cấp của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn 2019 – 2021. Nghiên cứu kế thừa mô hình của Muslih, M. & Amin, N.M. (2018), sử dụng ước lượng bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS), các kiểm định (kiểm tra dữ liệu chuẩn, đa cộng tuyến và tương quan, hồi quy tuyến tính và các kỹ thuật thống kê khác) được thực hiện với chương trình SPSS. Bên cạnh đó, tác giả kiểm định bổ sung trên nhóm mẫu là các công ty có khó khăn về tài chính. Kết quả cho thấy đối với dữ liệu của 298 mẫu từ 105 công ty niêm yết TTCK Việt Nam, các biến ý kiến kiểm toán, lợi nhuận và quy mô công ty có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Biến ý kiến kiểm toán tác động cùng chiều đến giá cổ phiếu với hệ số hồi quy 0.138, lợi nhuận tác động cùng chiều trong khi quy mô có tác động ngược chiều đến giá cổ phiếu. Mức độ tác động của các biến độc lập trong mô hình hồi quy là không đáng kể, giải thích 33.5% biến phụ thuộc trong mô hình. Trong khi đó, thử nghiệm bổ sung đối với các công ty có tình hình khó khăn về tài chính cho kết quả ý kiến kiểm toán có tác động cùng chiều đến giá cổ phiếu với hệ số hồi quy là 0.094. Lợi nhuận và quy mô không có ý nghĩa trong mô hình ở trường hợp này. Điều này cho thấy các nhà đầu tư đã xem xét đến thông tin trên BCKT khi đưa ra một quyết định đầu tư. Kết quả nghiên cứu này góp phần khẳng định những kết quả của các nghiên cứu trước đây của Firth (1978), Gul (1990), Ianniello, G., & Galloppo, G. (2015), Hoti A.H & cộng sự (2012), Rena (2016), Trần Thị Giang Tân và cộng sự (2017), Lê Thị Mai Anh (2018). |
Issue Date: | 2022 |
Publisher: | Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh |
URI: | https://opac.ueh.edu.vn/record=b1034914~S8 https://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/67224 |
Appears in Collections: | MASTER'S THESES
|