Title: | Ảnh hưởng của Công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam |
Author(s): | Lê Hoàng Nguyên Phương |
Advisor(s): | Dr. Nguyễn Thị Phương Hồng |
Keywords: | Quản trị lợi nhuận dồn tích; Csr; Công bố thông tin Trách nhiệm xã hội; Earnings management; Corporate social responsibility disclosure |
Abstract: | Lợi nhuận là một chỉ tiêu được chú trọng nhiều vì chỉ tiêu này không chỉ phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến quyết định mua/bán cổ phiếu, góp vốn của NĐT. Chính vì vậy, với mục đích nâng cao hình ảnh, thu hút vốn đầu tư, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện QTLN. Có nhiều phương pháp để NQL thực hiện QTLN. Prior và cộng sự (2008) cho rằng những NQL công bố TT TNXH để che giấu hiệu suất thực sự và thao túng lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Faisal và cộng sự (2018) lại cho thấy NQL công bố TT TNXH để hạn chế hành vi QTLN. Chính vì vậy, ảnh hưởng của Công bố TT TNXH đến QTLN được nghiên cứu ở nhiều quốc gia, tuy nhiên, vẫn chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Do đó, với mục tiêu nghiên cứu là xem xét sự ảnh hưởng của CSRD đến QTLN của các DNNY trên TTCK Việt Nam và ảnh hưởng của CSRD theo từng lĩnh vực như Kinh tế, Môi trường và Xã hội đến QTLN của DNNY trên TTCK Việt Nam, tác giả đã thu thập dữ liệu bảng theo mẫu gồm 876 quan sát trong 2019-2021 từ 292 doanh nghiệp và thực hiện phân tích hồi quy FGLS. Kết quả nghiên cứu đã giải quyết được mục tiêu nghiên cứu và trả lời được cho những câu hỏi nghiên cứu. Cụ thể, CSRD ảnh hưởng ngược chiều đến QTLN xét trong bối cảnh nghiên cứu những DNNY trên HOSE và HNX từ 2019-2021. Thứ hai, trong bối cảnh nghiên cứu là những DNNY trên TTCK Việt Nam từ 2019-2021, CSRD – lĩnh vực Kinh tế không có ảnh hưởng đến QTLN, chỉ có CSRD – lĩnh vực Môi trường và CSRD – lĩnh vực Xã hội có ảnh hưởng ngược chiều đến QTLN. Về biến kiểm soát, có 5 trên 7 biến kiểm soát là TV HĐQT độc lập (BIND), ROA, quy mô doanh nghiệp (FS), TV HĐQT là nữ (WM), quy mô HĐQT (BS) là có ảnh hưởng đến QTLN. Ngoài ra, độ tuổi trung bình của TV HĐQT (AVR) và sở hữu của tổ chức (IO) không có ảnh hưởng đến QTLN. Theo đó, thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số kiến nghị cho cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp niêm yết, nhà đầu tư và các đối tượng sử dụng khác nhằm phục vụ quá trình đưa ra quyết định. Dựa trên những hạn chế để gợi ý những hướng nghiên cứu trong tương lai nhằm phát triển đề tài về ảnh hưởng của CSRD đến QTLN. |
Issue Date: | 2023 |
Publisher: | Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh |
URI: | https://opac.ueh.edu.vn/record=b1035742~S1 https://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/69497 |
Appears in Collections: | MASTER'S THESES
|