Title: | Các nhân tố ảnh hưởng đến thận trọng kế toán của các công ty niêm yết – bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam |
Author(s): | Phan Thị Trà Mỹ |
Advisor(s): | Assoc. Prof. Dr. Nguyễn Thị Phương Hồng |
Keywords: | Thận trọng kế toán; Cấu trúc sở hữu vốn; Đặc điểm quản trị công ty; Đặc điểm tài chính; Thị trường chứng khoán; Accounting conservatism; Ownership structure; Corporate governance characteristics; Financial characteristics; Stock market |
Abstract: | Nghiên cứu này phân tích mối quan hệ của 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến thận trọng kế toán (TTKT) của các công ty niêm yết bao gồm: Nhóm nhân tố thứ nhất là cấu trúc quyền sở hữu (bao gồm 5 nhân tố: quyền sở hữu nước ngoài, quyền sở hữu nhà nước, quyền sở hữu tổ chức, quyền sở hữu nhà quản lý), nhóm nhân tố thứ hai là đặc điểm quản trị công ty (bao gồm 4 nhân tố: quy mô hội đồng quản trị, sự độc lập của hội đồng quản trị, đa dạng giới tính, chuyên môn kế toán – tài chính của hội đồng quản trị), nhóm nhân tố thứ ba đặc điểm tài chính (bao gồm 10 nhân tố: cơ hội tăng trưởng, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, tăng trưởng doanh số, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản, cường độ sử dụng vốn, đường cơ hội đầu tư, đòn bẩy tài chính, mức độ khó khăn tài chính, đa dạng hóa doanh thu, môi trường không chắc chắn). Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng 3 biến kiểm soát đó là loại công ty kiểm toán, quy mô công ty, tuổi công ty). Tác giả sử dụng dữ liệu bảng cân bằng được thu thập từ các báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của 374 công ty đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trên cả hai sàn giao dịch (HOSE và HNX) trong giai đoạn 5 năm từ 2017 - 2021, tổng cộng 1.870 quan sát. Nghiên cứu sử dụng cả hai thước đo của TTKT đo lường TTKT theo các khoản dồn tích không hoạt động và tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách. Tác giả tiến hành thực hiện các kiểm định để lựa chọn mô hình phù hợp nhất trong số 3 mô hình: Pooled OLS, FEM và REM. Do mô hình có xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi và hiện tượng tự tương quan nên tác giả đã sử dụng mô hình FGLS để khắc phục các hiện tượng này. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 5 nhân tố trong tổng số 19 nhân tố có ảnh hưởng đến TTKT ở cả 2 mô hình bao gồm cơ hội tăng trưởng, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản, đòn bẩy tài chính, môi trường không chắc chắn. Năm nhân tố chỉ có ảnh hưởng đến TTKT trong mô hình đo lường biến phụ thuộc theo cơ sở dồn tích không hoạt động bao gồm đa dạng giới tính, chuyên môn kế toán – tài chính của hội đồng quản trị, tăng trưởng doanh thu, đường cơ hội đầu tư, mức độ khó khăn tài chính. Ba nhân tố chỉ có ảnh hưởng đến TTKT trong mô hình đo lường biến phụ thuộc theo cơ sở tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách bao gồm quyền sở hữu của tổ chức, quy mô hội đồng quản trị, cường độ sử dụng vốn. Cuối cùng, sáu nhân tố không ảnh hưởng đến TTKT ở cả hai mô hình đó là quyền sở hữu nước ngoài, quyền sở hữu nhà nước, quyền sở hữu nhà quản lý, quyền sở hữu tập trung, sự độc lập của hội đồng quản trị, đa dạng hóa doanh thu. Dựa trên những kết quả nghiên cứu này đạt được, tác giả đề xuất một số hàm ý chính sách và hàm ý quản trị cho các bên liên quan như các công ty niêm yết, công ty kiểm toán độc lập, nhà đầu tư, nhà phân tích, ngân hàng, chủ nợ và các cơ quan quản lý nhà nước. |
Issue Date: | 2024 |
Publisher: | Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh |
URI: | https://opac.ueh.edu.vn/record=b1038167~S1 https://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/74417 |
Appears in Collections: | DISSERTATIONS
|