Title: | Đo lường mức độ hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về hợp đồng xây dựng |
Author(s): | Đặng Thị Mai Trang |
Advisor(s): | Assoc. Prof. Dr. Trần Phước |
Keywords: | Kế toán; Accounting; Chuẩn mực kế toán; Accounting standard |
Abstract: | Với mục tiêu nghiên cứu về mức độ hòa hợp về hợp đồng xây dựng giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế, luận văn đã thực hiện được các nội dung sau: Tổng hợp lý thuyết về hài hòa hợp kế toán; khái quát về hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế làm nền tảng lý thuyết cho nghiên cứu. Tổng hợp các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam đã đo lường mức độ hòa hợp giữa các bộ chuẩn mực kế toán quốc gia và chuẩn mực kế toán quốc tế. Xây dựng giả thuyết về mức độ hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về hợp đồng xây dựng; xem xét sự biến động của mức độ hòa hợp này sau khi IASB ban hành IFRS 15. Xác định mức độ hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về hợp đồng xây dựng thông qua việc phân tích nội dung dữ liệu và thực hiện tính toán. Đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao mức độ mức độ hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về hợp đồng xây dựng (Được trình bày trong phần tiếp theo của chương này). Kết quả nghiên cứu của luận văn này đã chỉ ra rằng chuẩn mực kế toán Việt Nam về hợp đồng xây dựng đạt mức hòa hợp cao so với các chuẩn mực tương ứng của quốc tế và mức độ hòa hợp này không gia tăng thêm sau khi IASB ban hành IFRS 15. Lý giải cho kết quả này, là do VAS 15 được xây dựng dựa trên IAS 11 nên gần như là đảm bảo trọn vẹn tinh thần của IAS 11. VAS 15 đã tồn tại được 14 năm và vẫn còn hiệu lực ở thời điểm hiện tại. Tháng 05/2014, IASB ban hành IFRS 15 chính thức loại bỏ IAS 11. Một trong những bước tiến lớn nhất của IFRS 15 là xây dựng phương pháp tiếp cận 5 bước để xác định doanh thu, IFRS 15 không còn xem hợp đồng xây dựng là loại hợp đồng riêng biệt đặc thù nữa mà xác định nó như là một loại hợp đồng thông thường với khách hàng. Trong khi đó ở Việt Nam, việc cập nhật những IFRS mới vẫn luôn chậm hơn rất nhiều so với thế giới. Khoảng thời gian để chúng ta ban hành được những chuẩn mực, nghị định, thông tư sửa đổi để theo kịp với chuẩn mực quốc tế thì những chuẩn mực đó gần như lại sắp thay đổi một lần nữa. Việc IFRS 15 được ban hành thực sự đã tạo ra một khoảng cách khá xa với các VAS nói chung và 72 VAS nói riêng. Do đó, mức độ hòa hợp giữa VAS 15 và IFRS 15 thấp hơn nhiều (40,48%- Bảng 4.1) so với VAS 15 và IAS 11 (70,29%- Bảng 4.1). |
Issue Date: | 2016 |
Publisher: | Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh |
Description: | Chuyên ngành: Kế toán |
URI: | http://opac.ueh.edu.vn/record=b1024345~S1 http://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/55582 |
Appears in Collections: | MASTER'S THESES
|