Title: | Tác động của quản trị vốn luân chuyển đến khả năng sinh lợi của các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam |
Author(s): | Nguyễn Thị Út Thư |
Advisor(s): | Assoc. Prof. Dr. Trần Thị Hải Lý |
Keywords: | Quản trị vốn luân chuyển; Khả năng sinh lời; Công ty niêm yết; Corprate finance; Tài chính doanh nghiệp |
Abstract: | Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm xem xét ảnh hưởng của việc quản trị vốn luân chuyển lên khả năng sinh lợi của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam giai đoạn từ năm 2010 đến 2015, đặc biệt tác giả mở rộng hơn khi nghiên cứu trên mẫu các công ty có sở hữu nhà nước để đánh giá xem liệu rằng hình thức sở hữu có tác động như thế nào đến mối quan hệ này. Quản trị vốn luân chuyển được xem xét thông qua chỉ tiêu chu kỳ luân chuyển tiền mặt (cash conversion cycle – CCC), mà chu kỳ luân chuyển tiền mặt bao gồm chu kỳ các khoản phải thu, chu kỳ hàng tồn kho và chu kỳ các khoản phải trả, còn khả năng sinh lợi được tìm hiểu thông qua chỉ số lợi nhuận hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản trừ tài sản tài chính. Tác giả thu thập dữ liệu từ báo cáo tài chính của 164 công ty trên hai sàn chứng khoán HNX và HOSE trong vòng 6 năm liên tiếp, sau đó thực hiện hồi quy với các phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), hiệu ứng cố định (FEM), hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) với dữ liệu bảng và dùng các kiểm định T-test và Hausman để lựa chọn phương pháp hồi quy phù hợp nhất, sau đó tiến hành các kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan, nhận thấy dữ liệu có các hiện tượng này nên tác giả đã thực hiện phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS) để khắc phục nhằm cho ra kết quả ước lượng chính xác nhất. Kết quả nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp càng quản trị vốn luân chuyển hiệu quả thì khả năng sinh lợi sẽ càng tăng lên bằng chứng là chu kỳ luân chuyển tiền mặt ảnh hưởng nghịch biến lên lợi nhuận hoạt động, cụ thể khi nghiên cứu ảnh hưởng của từng chỉ tiêu của chu kỳ luân chuyển tiền mặt lên lợi nhuận thì cho kết quả: chu kỳ các khoản phải thu, các khoản phải trả ảnh hưởng ngược chiều đối với lợi nhuận, riêng chu kỳ tồn trữ hàng tồn kho không có ý nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa khi chu kỳ các khoản phải thu khách hàng, chu kỳ các khoản phải trả và chu kỳ luân chuyển tiền mặt được rút ngắn lại thì khả năng sinh lợi của công ty sẽ được cải thiện. Sau đó tác giả tiến hành chia mẫu thành nhóm các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước trên 50% và nhóm không có sở hữu nhà nước hoặc tỷ lệ sở hữu nhà nước 2 thấp hơn 50% và hồi quy với biến giả STATE để xem xét ảnh hưởng của sở hữu nhà nước lên mối quan hệ giữa chu kỳ luân chuyển tiền mặt và lợi nhuận. Kết quả cho thấy những công ty có sở hữu nhà nước có tỷ lệ tăng của lợi nhuận thấp hơn những công ty không có sở hữu nhà nước khi số ngày luân chuyển tiền mặt giảm xuống. Kết quả của bài nghiên cứu đóng góp thêm một bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa quản trị vốn luân chuyển và lợi nhuận để từ đó các nhà quản trị có thể có những giải pháp để nâng cao hiệu quả quản trị vốn luân chuyển, giúp công ty tăng khả năng sinh lợi, đặc biệt là ở các công ty có sở hữu nhà nước. |
Issue Date: | 2017 |
Publisher: | Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh |
Description: | Finance - Banking = Tài chính - Ngân hàng |
URI: | http://opac.ueh.edu.vn/record=b1025224~S1 http://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/56330 |
Appears in Collections: | MASTER'S THESES
|