Title: | Mức độ tập trung sở hữu và lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam |
Author(s): | Nguyễn Quỳnh Hương |
Advisor(s): | Dr. Đinh Thị Thu Hồng |
Keywords: | Ngân hàng thương mại; Lợi nhuận; Lợi nhuận ngân hàng; Commercial bank; Bank profit; Ngân hàng; Banking |
Abstract: | Luận văn nhằm nghiên cứu sự tác động của các mức độ khác nhau của tập trung sở hữu lên lợi nhuận ngân hàng. Kết quả chỉ ra rằng những ngân hàng có mức độ tập trung sở hữu cao có tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) cao nhất, trong khi đó các ngân hàng có mức độ tập trung sở hữu trung bình lại có tỷ lệ lợi nhuận thấp nhất, còn lại các ngân hàng có mức độ sở hữu phân tán (thấp) thì có tỷ lệ lợi nhuận trung bình. Điều này chứng tỏ, các ngân hàng Việt Nam với mức độ tập trung sở hữu cao có hiệu quả hoạt động tốt nhất so với các ngân hàng còn lại. Bài nghiên cứu cũng kiểm tra sự tác động của các yếu tố quyết định lợi nhuận của các ngân hàng ở các mức độ tập trung sở hữu khác nhau bao gồm hiệu quả chi phí (CI), chất lượng tài sản (AQ), độ an toàn vốn (EQTA) và độ tăng trưởng GDP hàng năm (∆GDP) ở các mức độ tập trung sở hữu khác nhau lên lợi nhuận của ngân hàng (ROA, ROE). Đối với bảng kết quả về các yếu tố quyết định lợi nhuận: các biến độc lập CI, AQ và EQTA hầu như đều có tương quan âm với biến phụ thuộc ROA và ROE, giống sự kỳ; trong khi đó, độ tăng trưởng GDP hàng năm (∆GDP) lại có ảnh hưởng ngược chiều đến lợi nhuận các ngân hàng. Với bảng kết quả ở mức độ sở hữu phân tán: ở lượng OLS của các biến độc lập với ROA, có thể thấy chỉ có hiệu quả chi phí (DISP*CI) có tác động ngược chiều với ROA như kỳ vọng ban đầu, các biến độc lập còn lại đều cho kết quả dương trong tương quan với ROA. Ngược lại với kết quả này, các ước lượng GMM của ROA, OLS và GMM của ROE đều cho kết quả về dấu như kỳ trừ độ tăng trưởng GDP hàng năm (∆GDP). Đối với bảng kết quả ở mức độ tập trung sở hữu trung bình: chỉ có biến độc lập về hiệu quả chi phí (MOD*CI) là có tác động ngược chiều có ý nghĩa và GDP tác động cùng chiều có ý nghĩa lên lợi nhuận ngân hàng giống với kỳ vọng ban đầu. Với bảng kết quả ở mức độ tập trung sở hữu cao: kết quả của các hệ số gần như hoàn toàn khác và chỉ có độ tăng trưởng GDP hàng năm (∆GDP) là giống với kỳ vọng. Tóm lại, điểm chung đối với mức độ sở hữu phân tán và mức độ tập trung sở hữu trung bình, biến hiệu quả chi phí (CI) có tác động ngược chiều và có ý nghĩa ở mức 1% đối với lợi nhuận của ngân hàng (ROA, ROE). Tuy nhiên, đối với mức độ tập trung sở hữu cao, hầu như lợi nhuận đều không chịu tác động của các yếu tố tài chính, mà chủ yếu chịu tác động từ tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm. Như vậy có thể kết luận rằng, đối với các ngân hàng có mức độ tập trung sở hữu cao (chủ yếu là các ngân hàng có tỷ lệ vốn sở hữu nhà nước cao) có hiệu quả hoạt động cao nhất. Theo như kết quả chạy mô hình thì lợi nhuận của các ngân hàng này ít bị tác động bởi các yếu tố quyết định lợi nhuận như hiệu quả chi phí, chất lượng tài sản cũng như độ an toàn vốn. Ngược lại với các ngân hàng thương mại có cổ phần nhà nước (các ngân hàng có mức độ tập trung sở hữu cao) thì các ngân hàng còn lại (có mức độ sở hữu phân tán và trung bình) có hiệu quả hoạt động tương đối kém hơn. |
Issue Date: | 2018 |
Publisher: | Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh |
URI: | http://opac.ueh.edu.vn/record=b1027626~S1 http://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/58026 |
Appears in Collections: | MASTER'S THESES
|