Title: | Mô hình kết hợp yếu tố tài chính, yếu tố thị trường và yếu tố vĩ mô trong dự báo kiệt quệ tài chính cho các công ty niêm yết Việt Nam |
Author(s): | Đinh Thu Ngọc |
Advisor(s): | Dr. Nguyễn Thị Uyên Uyên |
Keywords: | Tài chính doanh nghiệp; Dự báo tài chính; Kiệt quệ tài chính; Corporate finance; Financial forecasts; Financial exhaustion |
Abstract: | Với dữ liệu của 504 doanh nghiệp niêm yết Việt Nam trong giai đoạn 2009 - 2018 kết hợp với việc sử dụng hồi quy Logistic, bài nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu sử dụng mô hình kết hợp các yếu tố tài chính, yếu tố thị trường và yếu tố vĩ mô để dự báo tình trạng kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp hoạt động tại thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng sử dụng các thước đo như đường cong ROC; Cox và Smell R2; Nagelkerke R2 nhằm lựa chọn mô hình dự báo xác suất kiệt quệ tài chính đáng tin cậy nhất. Kết quả thực nghiệm từ nghiên cứu này chứng minh được rằng, mô hình kết hợp các yếu tố tài chính với các yếu tố vĩ mô có khả năng dự báo kiệt quệ tài chính với xác suất dự báo cao. Thông qua thước đo ROC, tác giả nhận thấy mô hình đáng tin cậy nhất là mô hình bao gồm tất cả các yếu tố tài chính; tất cả các yếu tố thị trường và yếu tố lạm phát; tiếp đến là mô hình bao gồm tất cả các yếu tố tài chính; tất cả yếu tố thị trường và yếu tố lãi suất; kế đến là mô hình bao gồm tất cả các yếu tố tài chính và yếu tố lạm phát; tiếp đến nữa là mô hình bao gồm tất cả các yếu tố tài chính và yếu tố lãi suất và cuối cùng là mô hình bao gồm tất cả các yếu tố tài chính. Tuy nhiên, khi xét đến ý nghĩa thống kê của các biến thành phần trong từng mô hình kết hợp với sử dụng các thước đo như đường cong ROC; Cox và Smell R2; Nagelkerke R2, tác giả đề xuất sử dụng mô hình kết hợp các yếu tố tài chính và yếu tố vĩ mô để dự báo xác suất kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu còn cho thấy hầu như tất cả các yếu tố tài chính, yếu tố thị trường và yếu tố vĩ mô đều ảnh hưởng đến xác suất kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Cụ thể, tính thanh khoản của tài sản, hiệu quả hoạt động của tài sản và khả năng sinh lợi càng thấp thì xác suất công ty bị kiệt quệ tài chính càng cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu và biến động của giá trị thị trường vốn chủ sở hữu lớn sẽ có xác suất kiệt quệ tài chính thấp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sử dụng nhiều đòn bẩy tài chính trong cấu trúc vốn và giá cổ phiếu trên thị trường cao thường có xác suất kiệt quệ tài chính lớn. |
Issue Date: | 2019 |
Publisher: | Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh |
URI: | http://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/59992 https://opac.ueh.edu.vn/record=b1031403~S1 |
Appears in Collections: | MASTER'S THESES
|